Café racer

Thuật ngữ “café racer” ám chỉ đến một chiếc xe máy có trọng lượng nhẹ và động cơ có sức mạnh vừa phải được tối ưu để sinh ra tốc độ và xử lý tốt hơn là để thoải mái – và đương nhiên là để có thể chạy nhanh nhất trên những đoạn đường ngắn.Với bố trí thân xe và xử lý gợi nhớ lại những chiếc xe đua Grand Prix vào những năm đầu 1960.Những chiếc xe mang phong cách café racer nổi tiếng với hình hài tối giản, với tay lái hạ thấp, đuôi yên nhô lên, bình chứa nhiên liệu thon dài và lõm vào ngay phần cuối để đầu gối kẹp vào.

Thuật ngữ “café racer” được phát triển bởi những người đam mê xe máy ở nước Anh từ những năm đầu 1960, cụ thể là văn hóa nhóm Rocker hay “Ton-Up Boys”, nơi những chiếc xe được sử dụng để chạy nhanh trên đoạn đường ngắn giữa các quán café.

Vào năm 2005, nhà báo xe máy Peter Egan đã đề xuất nguồn gốc thuật ngữ xuất phát những năm 1960.Năm 1973, nhà văn tự do người Mỹ Wallace Wyss đã viết cho tạp chí Popular Mechanics rằng thuật ngữ café racer khởi nguồn được sử dụng với mục đích chế nhạo ở Châu Âu để mô tả “một người đi xe máy mà đã từng tham gia ở giải đua xe Isle of Man” và trong thực tế là “một người sở hữu cỗ máy đua nhưng chỉ đậu ngay gần bàn của anh ta tại một quán café địa phương”.Vào năm 2014, nhà báo Ben Stewart đã mô tả thuật ngữ café racer là “phong cách được làm phổ biến khi những đứa trẻ Châu Âu lột những chiếc xe dung tích nhỏ của chúng xuống để chạy nhanh từ quán café này đến quán café khác”

Ngoài trọng lượng nhẹ, động cơ có sức mạnh vừa phải, và hình hài tối giản, những chiếc mang phong cách café racer thường có những tính năng thiết kế độc đáo.

Tay lái thấp và hẹp – được biết đến như những clip-on (2 tay lái riêng biệt được bắt ốc trực tiếp vào mỗi ống chạng ba), tay lái clubman hay ace (mỗi thanh tay lái được gắn vào điểm gắn tiêu chuẩn nhưng thả xuống và đẩy về phía trước) – cho phép người cầm lái gập người xuống để làm giảm lượng cản của gió và cải thiện kiểm soát.Cùng với yên được định vị phía sau, tư thế thường đòi hỏi phải có bộ sau – bộ gác chân và điều khiển chân giống như những chiếc xe máy đua thời kỳ đó.Bộ áo chụp phong cách đua đặc trưng một nửa hoặc đầy đủ đôi khi được gắn vào chạng ba hoặc khung sườn.

Những chiếc xe được trang bị một phong cách tối giản, động cơ được tinh chỉnh để cho ra tốc độ tối đa và xử lý nhẹ nhàng trên đường.Một ví dụ nổi tiếng của café racer là “Trion” – đây là sự kết hợp giữa khun sườn xử lý tốt Featherbed của Norton và động cơ xe đua Triumph Bonneville.Những người ít tiền có thể lựa chọn một mẫu khác là “Tribsa” – sự kết hợp của động cơ Triumph với khung sườn của BSA.Cũng có các sự kết hợp khác như là “Norvin” – động cơ V-Twin của Vincent trong khung sườn Featherbed và những khung sườn đua bởi Rickman hoặc Seeley cũng được thừa nhận để sử dụng trên đường.

Phong cách café racer đã tiến hóa xuyên qua nhiều thời đại bởi sự nổi tiếng của chúng.Vào giữa những năm 1970 , những chiếc xe máy Nhật Bản đã vượt mặt những chiếc xe máy của Anh trên thị trường, và hình hài của những chiếc xe đua Grand Prix thực sự đã thay đổi.Những bình chứa nhiên liệu xe đua bằng nhôm thường không sơn được làm thủ công của những năm 1960 đã tiến hóa sang những bình chứa nhiên liệu bằng sợi thủy tinh hình vuông, hẹp.Ngày càng nhiều những động cơ của Kawasaki 2 thì 3 xi lanh, Kawasaki Z1 4 thì 4 xi lanh, Honda đa 4 xi lanh được sử dụng làm nền tảng để xây dựng café racer.Năm 1977, một số nhà sản xuất đã đưa ra công bố về sự bùng nổ của café racer và sản xuất những chiếc xe máy mang phong cách café racer, và được đón nhận tốt như Moto Guzzi Le Mans và mẫu không phổ biến nhưng cũng không thể nào quên là Harley-Davidson XLCR.Vào những năm cuối 1980 thì có Honda GB500 “Tourist Trophy” mô phỏng theo những chiếc café racer của Anh vào những năm 1960, tuy nhiên doanh số bán ra lại cực kỳ thất vọng.

Vào giữa những năm 1970, những tay chơi xe tiếp tinh chỉnh những chiếc xe máy sản xuất tiêu chuẩn sang café racer bằng cách đơn giản là trang bị tay lái clubman và một áo chụp xung quanh đèn pha.Một số nhà sản xuất ở Châu Âu, bao gồm Benelli, BMW, Bultaco và Derbi đã sản xuất ra những biến thể café racer từ những chiếc xe máy tiêu chuẩn của họ theo cách này, mà không có bất kỳ sự chỉnh sửa nào làm cho chúng nhanh hơn và mạnh mẽ hơn, một xu hướng tiếp tục cho đến ngày nay.

Rocker là nhóm phản văn hóa “rock and roll” trẻ tuổi và nổi loạn – những người muốn có cho mình một chiếc xe chạy nhanh, cá nhân hóa và độc đáo để di chuyển giữa những quán café dọc theo những đường cao tốc huyết mạch mới được xây dựng trong và xung quanh những thị trấn, thành phố của Anh.Một Biker huyền thoại có một mục tiêu nhắm đến là có thể chạy lên đến 100mph (khoảng 160km/h) – được gọi đơn giản là “Ton” – dọc theo lộ trình nơi người cầm lái rời quán café, đua tới một điểm được định trước và quay trở lại quán café đó trước khi một bài hát chơi hết trên máy hát tự động – được gọi là kỷ lục đua (record-racing).Tuy nhiên, Mike Seate lại cho rằng kỷ lục đua chỉ là một truyền thuyết, câu chuyện có nguồn gốc từ một tập phim BBC Dixon của chương trình tivi Dock Green.Những tay chơi café racer được nhớ đến là những người đặc biệt thích nhạc rock và hình ảnh của họ vẫn được gắn vào trong văn hóa rock ngày nay.

Văn hóa nhóm tiếp tục tiến hóa với những café racer hiện đại lấy những yếu tố phong cách của American Greaser, British Rocker và người chạy xe máy hiện đại để tạo ra phong cách toàn cầu cho riêng họ. Theo xu hướng tìm kiếm được Google Trends tổng hợp cho thấy, số lượng người tìm kiếm liên quan đến thuật ngữ café racer đã tăng gấp 3 so với tổng số tìm kiếm khác của Google.

Nhóm Rocker những năm 1960 dưới mái che bên ngoài quán Busy Bee Cafe ở Watford, Anh.

 

Suzuki S40 được tùy biến sang phong cách cafe racer.

 

Triton : Động cơ Triumph kết hợp với khung sườn Featherbed của Norton.

 

Chiếc xe đua AJS 7R 350cc model 1962 được trưng bày tại Bảo Tàng Gruber, Weiler im Allgäu, Bavaria, Đức.

 

Honda CB400 Four cafe racer.

 

BSA Goldstar 500 cafe racer.

 

Harley-Davidson XLCR model 1977.

sưu tầm | nguồn & photo Wikipedia